Công ty Cổ phần giải pháp công nghệ IPHARM

  • Increase font size
  • Default font size
  • Decrease font size

X-quang không phim

Email In PDF.

Với Tổ chức Các Trung tâm Y tế Cộng đồng, một nhóm bệnh viện phi lợi nhuận ở California, bước đổi thay gần đây để chuyển sang một môi trường không dùng phim đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế, vì phương pháp truyền thống đưa các hình ảnh như X-quang, MRI và siêu âm lên phim đắt tiền và tốn nhiều thời gian. Cách đây hai năm, tổ chức này đã chuyển sang dùng một hệ thống cho phép các hình ảnh y khoa lưu hành trên mạng để các kỹ thuật viên, bác sĩ và nhân viên y tế từ bất cứ nơi nào cũng có thể truy cập đến chúng.

 

 

 Hình ảnh X-quang được số hóa

Richard Cummins, Trưởng phòng công nghệ thông tin (CNTT) phụ trách dịch vụ mạng của tổ chức y tế nói trên, đã từng trăn trở : Liệu những tập tin hình ảnh lớn này có ảnh hưởng đến hiệu năng làm việc của mạng không ? Làm cách nào để một tổ chức có trụ sở tại Fresno (California), điều hành 30 bệnh viện, trạm y tế, trung tâm điều dưỡng và những cơ sở y tế khác ở miền trung California, có thể cất và lưu trữ những hình ảnh khá lớn này ?
Thực hiện dự án này, được mang tên Hệ thống Điện toán Lưu trữ Hình ảnh (Picture Archival Computer System - PACS), không phải là trách nhiệm chính của Cummins mà là của một đơn vị triển khai ứng dụng thuộc phòng CNTT gồm 104 nhân viên. Nhưng ảnh hưởng mà các tập tin hình ảnh rất lớn này sẽ gây ra trên mạng và hệ thống lưu trữ của tổ chức thì thực sự thuộc trách nhiệm của ông.
Trước khi chuyển sang dùng PACS, Cummins phải xem xét lại các yêu cầu của dự án và đánh giá hệ thống mạng hiện hành, xác định những khu vực sử dụng nhiều tài nguyên điện toán. Ông phát hiện ra rằng hầu hết các cơ sở y tế của tổ chức đều có thể xử lý được việc kết nối mạng với tốc độ 100 Mbps theo yêu cầu của PACS, chỉ có một cơ sở là phải nâng cấp hệ thống từ 45 Mbps lên 1 Gbps để tiết kiệm băng thông. Cummins đã trang bị cho hệ thống thêm một bộ lưu trữ có dung lượng 14TB của Công ty HP, hai bộ chuyển mạch có tốc độ 4 Gbps cho mạng lưu trữ của Hãng Brocade, và một máy HP ESL 712 để sao lưu dữ liệu dự phòng lên băng từ. Tổ chức cũng lắp đặt những máy trạm chẩn đoán dành cho nhân viên X-quang.
PACS được thi công vào tháng 5-2005 và việc triển khai hệ thống đến tất cả các cơ sở y tế của tổ chức đã hoàn tất vào tháng 11. Cummins cho biết tổng kinh phí cho PACS là tám triệu đô la Mỹ trong năm năm, trong đó phần hạ tầng cơ sở gồm các máy chủ và các bộ lưu trữ chiếm một triệu đô la.
“Hệ thống mang lại hiệu quả tức khắc. Ngay trong ngày đầu tiên sử dụng PACS, các nhân viên X-quang của một cơ sở y tế ngưng dùng phim và đã giảm thiểu đáng kể thời gian xem xét phim,” Cummins nói. Mặc dù từ chối tiết lộ số tiền tiết kiệm được từ việc sử dụng PACS, các viên chức của tổ chức cho biết chi phí hoạt động đã giảm thiểu đáng kể, bao gồm chi phí về vật liệu dùng để hủy và xử lý phim, túi đựng phim và chỗ cất phim, cũng như những chi phí về lao động như thời gian lục tìm phim hoặc chụp lại những phim X-quang không đạt yêu cầu.
PACS là một trong ba sáng kiến về CNTT có tính chiến lược đang được tiến hành đồng thời tại các Trung tâm Y tế Cộng đồng ở California và đã mang lại một ảnh hưởng đáng kể đến cơ sở hạ tầng CNTT của tổ chức. Sáng kiến thứ hai là việc chuyển sang sử dụng hồ sơ bệnh án điện tử đã hoàn tất cách đây một năm, cho phép các bác sĩ có thể ký duyệt biểu đồ bệnh án từ xa theo kiểu số hóa. Sáng kiến thứ ba là một cổng thông tin điện tử (portal) được triển khai vào tháng 10-2005, tập trung tất cả những dữ liệu cần thiết cho các bác sĩ của tổ chức. Cummins cho biết những sáng kiến này giúp các cơ sở y tế của tổ chức không những tiết kiệm chi phí mà còn tăng sức cạnh tranh.
“Tôi quản lý nhóm cơ sở hạ tầng mạng và chịu trách nhiệm về toàn bộ cơ sở hạ tầng dữ liệu - tất cả những bộ chuyển mạch, bộ định tuyến, trung tâm dữ liệu, an ninh mạng, triển khai các ứng dụng tự động hóa, và tích hợp công nghệ mới. Chúng tôi làm việc vì một lý do : Làm sao để các ứng dụng cho bệnh viện và cho doanh nghiệp có thể chạy trên một cơ sở hạ tầng dữ liệu vững chắc nhưng linh hoạt,” Cummins nói.
Để chuẩn bị cho những dự án nói trên, việc lập kế hoạch quan trọng hơn việc nâng cấp hệ thống mạng và bộ lưu trữ. Nó đòi hỏi một tư duy chiến lược để đưa cơ sở hạ tầng của một hệ thống y tế lên đến mức có thể hỗ trợ những ứng dụng mới một cách hữu hiệu và tiết kiệm.
George Vasquez, quyền Giám đốc CNTT kiêm Giám đốc dịch vụ kỹ thuật, là cấp trên của Cummins, cho biết : “Một năm trước khi dự án được triển tôi sử dụng cả đĩa lẫn băng từ cho việc lưu trữ này.”
Cummins và nhóm của ông nhận thức được rằng trách nhiệm của nhóm là khai, nhóm của Cummins phải thiết kế lại kiến trúc hệ thống bộ nhớ. Bộ nhớ đĩa cứng rất đắt tiền... Khi một bệnh nhân không còn điều trị tại bệnh viện nữa, những tập tin hình ảnh lớn của bệnh nhân đó sẽ được chuyển sang những môi trường lưu trữ rẻ tiền hơn. Vì vậy, dữ liệu luôn dịch chuyển từ bộ lưu trữ chính sang bộ lưu trữ dự phòng để có thể được khôi phục lại khi có sự cố ; chúng bảo đảm duy trì tính chiến lược và khả năng sinh lợi của CNTT. Đó chính là động cơ thức đẩy họ chuẩn bị cơ sở hạ tầng của tổ chức cho những dự án mới.
Theo Dennis Gaughan, Giám đốc nghiên cứu của Công ty AMR Research, sự nhận thức và lập kế hoạch cho những ảnh hưởng mà các ứng dụng mang tính chiến lược gây ra trên một cơ sở hạ tầng CNTT là yếu tố then chốt, nhưng không phải ai cũng biết như vậy. “Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng có rất ít tổ chức thực sự làm tốt việc liên kết công tác quản lý danh mục dự án và quy hoạch đầu tư với kiến trúc doanh nghiệp,” ông nói. Sự thiếu liên kết này, theo ông, sẽ càng trở nên tồi tệ hơn khi triển khai những kiến trúc hướng đến dịch vụ cho phép sự thay đổi diễn ra rất nhanh. Nếu cơ sở hạ tầng không phù hợp với những ứng dụng mang tính chiến lược, “bạn đã đưa yếu tố rủi ro vào cuộc vì ứng dụng mới đó sẽ không vận hành như mong đợi trong kiến trúc hiện hữu,” ông giải thích.
Cummins bảo đảm rằng mỗi dự án mới đều có mặt nhân viên thuộc nhóm của ông. “Chúng tôi không thể chỉ nói, ‘Đây là chiếc máy chủ, hãy cài đặt ứng dụng của bạn mỗi khi có một dự án cho bệnh viện hay cho doanh nghiệp’. Một nhân viên nào đó thuộc nhóm phụ trách hạ tầng cơ sở sẽ phải có mặt trong dự án đó,” ông nói.
Phòng CNTT cũng phải chuẩn bị để đối phó với những dự án đòi hỏi một sự phân bổ ngân sách phức tạp. Ví dụ khi phân bổ tài chính cho năm tới, phòng CNTT phải bảo đảm có đủ băng thông cho mạng để hỗ trợ những ứng dụng mới khi cần thiết. “Giả sử bộ phận điều dưỡng cần một ứng dụng mới vào giữa năm thì khi đó hệ thống mạng đã phải sẵn sàng tiếp nhận ngay ứng dụng ấy,” Vasquez nói.
Tổ chức Các Trung tâm Y tế Cộng đồng có một công thức để tạo sự cân bằng : Phòng CNTT dành 65% thời gian cho việc bảo trì kiến trúc hiện hành, 30% cho dự án mới, và 5% còn lại cho công tác huấn luyện. “Chúng tôi biết rằng chúng tôi không thể thực hiện tất cả những dự án này trong khi vẫn vận hành các hệ thống mà không có sự tập trung vào khâu bảo trì,” Vasquez nói.
Bằng việc giữ cho cơ sở hạ tầng CNTT của tổ chức phát triển cùng nhịp với các dự án mang tính chiến lược, Cummins đang giúp cho tổ chức của ông duy trì được năng lực cạnh tranh. Những kế hoạch sắp tới bao gồm việc triển khai hồ sơ bệnh án điện tử đến các cơ sở điều dưỡng trong tổ chức, thiết lập một trung tâm hình ảnh trực tuyến và nâng cấp các ứng dụng trong hệ thống thông tin bệnh viện. Cummins cũng có kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng một cách tương xứng với việc nâng cấp hệ thống với các phần mềm Microsoft Exchange Server và Windows XP SP2, thay thế các bộ chuyển mạch và định tuyến đã xuống cấp, và gia tăng dung lượng cho mạng SAN.
“Chúng tôi đã tạo ra một môi trường cung cấp những phương tiện tốt nhất - phòng mổ, nhân viên điều dưỡng... và cả những hệ thống thông tin tốt nhất - cho các bác sĩ muốn đến đây làm việc,” Cummins nói.

(Theo http://www.tbvtsg.com.vn)

Lần cập nhật cuối ( Thứ hai, 27 Tháng 2 2017 09:08 )  

Bản tin iPharm

Phần mềm Quản lý Phòng khám
Phần mềm đã được đưa vào sử dụng chính thức từ 26/10/2013. Phần mềm được phát triển trên công nghệ C#.NET 2005/ FrameWork 2.0/ Oracle 11g
Phần mềm Quản lý Phòng khám
Phần mềm đã được đưa vào sử dụng chính thức từ 02/10/2013. Phần mềm được phát triển trên công nghệ C#.NET 2005/ FrameWork 2.0/ Oracle 11g
Phần mềm Quản lý Phòng khám
Phần mềm đã được đưa vào sử dụng chính thức từ 01/04/2013. Phần mềm được phát triển trên công nghệ C#.NET 2005/ FrameWork 2.0/ Oracle 11g
Phần mềm Quản lý Phòng khám
Phần mềm đã được đưa vào sử dụng chính thức từ tháng 08/2013 và đã đảm bảo được hiệu quả theo các mục tiêu đề ra. Phần mềm được phát triển trên công nghệ C#.NET 2012/ FrameWork 4.0/ SQL Server 2008
Phần mềm Quản lý Phòng khám
Phần mềm đã được đưa vào sử dụng chính thức từ 01/04/2013. Phần mềm được phát triển trên công nghệ C#.NET 2005/ FrameWork 2.0/ Oracle 11g
Phần mềm Quản lý khách hàng
Ngày 01/01/2013 Công ty iPharm cho ra mắt sản phẩm Phần mềm Quản lý khách hàng. Sản phẩm được phát triển trên công nghệ C#.NET 2005/ FrameWork 2.0/ SQL Server 2005
Phần mềm Quản lý thông tin bệnh nhân HIV
Dưới sự hỗ trợ của dự án Esther công ty iPharm đã xây dựng và triển khai thành công phần mềm Quản lý thông tin Bệnh nhân HIV cho Bệnh viện 09 Hà Nội.
Phần mềm Quản lý Nghiên cứu khoa học
Với sự phối hợp của Ban Quân y, Bệnh xá Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nam Định công ty iPharm chuyển giao Hệ thống phần mềm Quản lý Bệnh viện cho Bệnh xá BCHQS tỉnh Nam Định.

Các sản phẩm nổi bật

1Hệ thống phần mềm Quản lý bệnh viện
2Phần mềm quản lý bán lẻ tại Nhà thuốc GPP
3Phần mềm quản lý Phân phối thuốc (GDP)
  • Tin tức >> CNTT Y tế - Dược phẩm

    Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Hoàng Phương

    Ở Việt Nam, việc phát triển tin học y tế nên tập trung vào vấn đề bệnh tật và sức khỏe trong chăm…

    Đọc thêm...

Tin chuyên ngành trong nước

Tin chuyên ngành

Tin tức chuyên ngành Y - Dược trong nước.

Tin Y-Dược quốc tế

Tin Y Dược quốc tế
Cập nhật tin Y - Dược quốc tế.

Hướng dẫn sử dụng thuốc

Hướng dẫn sử dụng thuốc
Hướng dẫn sử dụng thuốc: Hướng dẫn cơ bản sử dụng các dạng thuốc khác nhau